Phần 3: Những Ngày Cùm Biệt Giam

Đỗ Văn PhúcCumXuanPhuoc

Khi nghe tiếng khoá lách cách bên ngoài, tôi cảm thấy nhẹ nhàng. Dù sắp phải đối phó với những màn ép cung mà một lời nói sơ suất có thể mang lại những hậu quả phiền toái; hoặc có thể xảy ra màn tra tấn đánh đập như từng xảy ra khi chúng tôi bị gán tội sách động đòi yêu sách hồi còn ở trại K5 Suối Máu. Tuy nhiên, công tâm mà nói, ở Xuân Phước hơn sáu năm, anh em tù nhân có thể bị khủng bố nghiêm trọng về tinh thần, nhưng cảnh tra tấn thì không dã man bằng ở trại Kà Tum, hay các trại miền đồng bằng Cửu Long, nơi bọn du kích, địa phương Việt Cộng quản lý trong những năm đầu. Chúng tôi vẫn coi thường những màn hỏi cung của bọn công an vì trình độ học thức, lý luận chúng rất kém cỏi. Vấn đề là phải làm sao để không hớ hênh khai báo gì mà có thể liên lụy cho các bạn mình hay để chúng chụp thêm tội. Dù có nhận tội hay không thì thời gian bị cùm cũng chẳng thay đổi gì. Đơn giản là nếu không nhận tội, thì chúng cho là ngoan cố; mà có nhận đại cho xong, thì chúng nó đoán sẽ còn nhiều điều cần truy cứu thêm. Nên trong cả hai trường hợp, chúng sẽ biệt giam cho đến khi nào gần quỵ gục thì mới thả ra.

Vì gần cuối năm, khí hậu tương đối dễ chịu. Nếu ở một hoàn cảnh nào khác, thì đó sẽ là một ngày đẹp trời, êm ả. Ánh nắng mai dịu dàng và khoảng trời xanh trong. Anh em tù nhân đã xuất trại lao động. Chỉ có hai ba đội đang làm cỏ chung quanh hội trường. Đó là các đội tù nhân thuộc phân trại A (hai trại A và E liền nhau, không có hàng rào ngăn cách, chung nhau một hội trường). Các anh em đó là những người ra đi trên tàu Việt Nam Thương Tín hồi cuối tháng 4 năm 75, và đã bị bọn Việt gian sách động đòi trở về nước sau khi đến được đảo Guam. Họ được đón tiếp trọng thể tại bờ biển Nha Trang. Có vòng hoa choàng cổ, có diễn văn chào mừng như đối với những người con yêu trở về với dân tộc. Nhưng ngay sau đó, từng đoàn xe buýt đưa thẳng họ vào Xuân Phước, lột sạch tư trang và đưa vào đây để họ trở thành những người tiền phong xây dựng những lán trại mà bây giờ là trại A-20 khét tiếng. Những người này vừa dân sự, vừa công chức, quân nhân các cấp, bị giữ từ 3 cho đến hơn 10 năm tùy theo lý lịch trước 1975. Tuy nhiên, họ được quy chế rộng rãi hơn đám tù cải tạo chúng tôi. Họ làm các công việc tương đối nhẹ nhàng, ít bị quản chế.

Hội trường cũng khá rộng. Trừ mặt sau bít kín, ba mặt kia đều có nhiều cửa sổ thông thoáng. Có hai chiếc bàn kê trên sân khấu. Tôi ngồi đối diện với tên cán bộ Luật ở bàn bên trái. Một cán bộ “giáo dục” ngồi bàn bên phải đang chăm chú đọc hồ sơ mà tôi đoán là của chính tôi. Bên ngoài anh em Việt Nam Thương Tín cũng vừa làm việc vừa lén theo dõi chúng tôi.
Bắt đầu thông thường là các câu hỏi: tên họ, cấp bậc, chức vụ và tội danh.
Thời gian đầu mới vào trại, bọn Cộng Sản ép chúng tôi phải nhận là ngụy quân, ngụy quyền. Nhiều anh em né tránh những danh từ điếm nhục mà kẻ thù cố gán và khai mình là “Sĩ Quan Chế Độ Cũ”. Sau này, bọn cán bộ mặc nhiên chấp nhận tội danh Sĩ Quan Chế Độ Cũ này.
Hôm nay, thì từ một động lực tiềm ần nào đó, tôi đột nhiên nổi cơn ương nghạnh:
– Tôi không can tội gì cả!
Tên Luật sững sờ, buông bút gằn giọng:
– Anh nói không can tội, thì sao chúng tôi phải giữ anh ở đây?
– Đúng, tôi không can tội gì.
– Anh cầm súng Mỹ chống lại cách mạng và nhân dân. Đảng và Nhà nước đã khoan dung tha tội chết, cho anh học tập cải tạo để thành người lương thiện mà anh lại chối à?
Tôi cười khẩy:
– Đối với tổ quốc và nhân dân, tôi không có tội gì cả. Năm 1975, chúng tôi lầm về các anh nên mới đi trình diện cải tạo. Nhưng đã 5 năm nay, chúng tôi nhận thức rằng các anh từ miền Bắc vào xâm chiếm miền Nam chỉ đem lại cơ hàn, đói khổ, áp bức cho đồng bào. Vì vậy, nếu chúng tôi chiến đấu, là chiến đấu cho chính nghĩa.
Luật ghi nguyên văn câu nói của tôi vào biên bản rồi chuyển qua cán bộ giáo dục (Tôi quên mất tên. Nhưng anh cán bộ này hoá ra là một người tốt, sau này đã giúp một anh trốn trại. Việc bị bể, cán bộ này lãnh án 5 năm ở trại tù tỉnh Phú Khánh). Đối thoại với cán bộ giáo dục cũng nhẹ nhàng, tôi vẫn giữ nguyên luận điệu. Vì thế, cuối cùng tôi được đối diện với viên trưởng trại Lê Đồng Vũ.
Với cặp mắt lừ đừ, gian ác trên khuôn mặt bèn bẹt của một thổ dân bán khai miền núi, Vũ nhìn tôi và bắt bẻ thế ngồi bắt chân chữ ngũ của tôi:
– Anh ngồi “nại” nghiêm túc.
– Nghiêm túc là thế nào? Năm nay ông mới là Thượng uý. Năm năm trước đây tôi đã là một Đại uý. Ngồi thế này là lịch sự lắm rồi.
Biết đụng đầu với một anh liều mạng, cứng đầu cứng cổ, Vũ bắt đầu lải nhải những luận điệu cũ rích về chính sách “khoan hồng độ lượng”, về cuộc chiến “chống Mỹ anh hùng.” Tôi ngồi nghe một cách lơ đãng và vẫn giữ một câu trả lời mỗi khi Vũ hỏi tôi về tội danh.
Sau cùng, không còn kiên nhẫn, Vũ đứng dậy và gầm lên:
– Chống Cộng “nà” chính nghĩa!, Hừm, tao cho mày chết rỉ cùm trong nhà kỷ “nuật”.
Không biết trời xui đất khiến gì mà tôi cũng đâm ra liều lĩnh. Tôi rán khạc một bãi đàm, nhổ toẹt ngay trước mặt Vũ.
Anh cán bộ giáo dục thấy tình hình quá nguy hiểm, đã kéo tay tôi lôi đi:
– Anh Phúc, bớt nóng, bớt nóng. Đi, đi mau. Mai mốt ra làm việc với tôi.
Anh em tù Việt Nam Thương Tín quanh đó hầu như ngưng tất cả công việc để theo dõi từng diễn tiến. Vì thế khi cán bộ giáo dục dẫn tôi đi qua, nhiều anh đã lén đưa ngón tay cái biểu lộ sự tán đồng.

Sau này, mãi cho đến khi chúng tôi bị di chuyển vào phân trại B, tên Lê Đồng Vũ thường né tránh mỗi khi vào trại mà chạm mặt với tôi. Trong khi tôi cứ xấn tới, thì Vũ tìm lối khác để đi. Với quyền uy tuyệt đối của môt trưởng trại, chúng muốn hành hạ gì người tù mà chẳng được. Nhưng rõ ràng là Lê Đồng Vũ e sợ bị làm nhục mất uy tìn trước các tù nhân trong trại. Theo nội quy trại, tù nhân khi gặp cán bộ trại tù phải dở nón, đứng cách 6 bước và hô “chào cán bộ”. Cũng theo 30 điều nội quy, tù nhân phải dỡ nón mỗi khi đi qua cổng trại. Sau này ở phân trại B, có một anh đội trưởng là Đặng P. L., người Huế, cựu Tiểu đoàn trưởng thuộc một sư đoàn BB ở vùng 2, còn đặt thêm lệ bắt chúng tôi phải đi qua cho hết hàng dừa bên ngoài cổng trại (cũng khoảng 50 mét nữa) mới được đội nón. Chúng tôi đặt cho anh này xú danh là ông Ba Mươi; vì nhiều lần anh ta tuyên bố rất xanh rờn: ”Khi không có cán bộ thì có tôi.” (ý muốn cho rằng mình cũng uy quyền như cán bộ. Khiếp! Về anh này, còn nhiều chuyện vui lắm. Tôi đã làm bài thơ nhại Kiều “Đoạn Trường Siêu Thanh” để nói về hai anh ĐPL (đội trưởng) và Nguyễn TL (tổ trưởng)

Trăm năm trong cõi tù giam,
Chữ đày chữ đoạ vốn là bạn thân
Suốt ngày nồng nặc mùi phân,
Một buồng giam nhỏ nhốt hơn trăm người.
Trong phòng hai gã đười ươi,
P. L. anh cả, em là T. L.
Độc như rắn, dữ như hùm
Mỗi thằng một vẻ, chẳng thua thằng nào.
L. xem người ngợm khác nào,
Một con khỉ gió, ra vào lom khom.
Loa mồm, giải mép còm ròm
Rắn ghen kém độc, sói hờn thua ranh.
Một hai gian ác rành rành,
Sánh ngang cán bộ, xú danh để đời.
L. càng nịnh thế xu thời,
So bề gian ác, chẳng đời nào thua.
Hai thằng cứ thế làm vua,
Trại tù làm gió làm mưa một thời.
Mai sau tiếng xấu để đời.
Vợ con dấu mặt, miệng người truyền mau.

Có lần, trong một cuộc họp đội, tôi đã lên tiếng góp ý cho ĐPL :
– Anh L., tôi hỏi anh mấy câu này: (1) Giờ ăn, anh có ra ngoài nhà ăn cán bộ ăn với họ, hay anh cũng đem cái chén đến nhận cơm bên thúng cơm tù của chúng tôi ? (2) Khi anh ngủ, anh có ra ngoài nhà ban Chỉ Huy ngủ chung với cán bộ hay anh cũng nằm trên chiếc sàn gỗ nhám trong nhà này? (3) Khi anh đau ốm, ai săn sóc anh? Y sĩ cán bộ hay chính anh em chúng tôi sẽ lo lắng cho anh? Tôi đề nghị anh nên trở về thực tế, đừng cứ ở trên mây. Đó là lời chân tình tôi nhắc nhở anh.
ĐPL giả lả trả lời :
– Anh giáng tôi một cái búa chứ nhắc nhở gì !
– Biết là cái búa thì nên coi chừng.
Bị tôi giáng nhiều cái búa như thế, ĐPL vẫn chứng nào tật nấy. Tuy nhiên, tôi chưa ghi nhận ĐPL báo cáo anh em điều gì nghiêm trọng.
Để tránh phải chào bọn cán, anh em chúng tôi có quy ước với nhau là không đội nón, cho dù mưa to gió lớn hay nắng lửa nứt da đầu. Không cần thiết thì không nên xáp lại gần bọn cán. Lấy đủ cớ như đau mắt, nắng chói không nhìn rõ để biện minh cho việc không chào cán bộ. Sáu năm sau, vào năm 1985, khi tôi làm thủ tục ra tù ở ban chỉ huy trại, một tên cán bộ an ninh đã cúi nhìn tận mặt tôi và lắc đầu:
– Anh ”lày nà” Đỗ Văn Phúc đây. Anh mà cũng được tha thì cũng “nạ”! Cán bộ Trưởng trại uy quyền tối cao mà anh còn “nàm” nhục thì hết “lước lói”.
Tôi được đưa trở lại nhà kỷ luật. Trên đường đi, tôi cũng tự trách mình đã quá nông nổi để có thể bị họa lớn. Nhưng rồi cũng tự an ủi vì đã bao lần, tôi đều chịu đựng và vượt qua.
Vì sắp đến giờ phát bữa ăn trưa, là bữa ăn duy nhất trong ngày của tù biệt giam, anh cán bộ này đã ra lệnh cho nhà bếp dọn cho tôi ngay phòng quản lý bếp. Do các anh nhà bếp – cũng là anh em quân nhân – đã chiếu cố đến một người bạn đồng cảnh xấu số, tôi được ăn khá hơn cả phần người tù thường. Khi vào phòng giam, lợi dụng sự dễ dãi của anh cán bộ giáo dục, tôi yêu cầu anh ta lấy cho tôi một chiếc cùm lớn hơn. Tuy nhiên, tôi vẫn không được thêm thứ gì khác. Lại một đêm lạnh lẽo và nhức nhối cùng mối lo chờ đợi sự trả thù của tên trưởng trại, mà chắc là rất thâm độc.