Những Cách Dùng Chữ Sai Nên Tránh

Đỗ Văn Phúc

Cảnh giác trước sự xâm nhập ngôn từ sai trái du nhập từ nước Việt Nam Cộng Sản.

Ngôn từ, yếu tố giao tiếp căn bản của con người, là một phần quan trọng của văn hoá. Miền Nam chúng ta kế thừa một nền văn hoá cổ truyền, nhân bản và hữu lý. Ngôn từ dùng trong đại chúng hay văn học đều có lề luật, dù nó được thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh sinh hoạt xã hội. Sau khi Cộng Sản chiếm miền Nam, họ đem vào nhiều từ ngữ, cách dùng chữ, đặt câu quái dị. Những vị cao niên có giải thích rằng ở miến bắc vào những thập niên 1950, khi đám bần nông ngoi lên nắm chính quyền; họ thường học đòi nói văn chương mà không hiểu biết nghĩa lý gì. Chế độ Cộng Sản chỉ biết áp bức chứ không có khả năng xây dựng. Đặc biệt về văn hoá, họ như đoàn quân man rợ, đã triệt hạ cả một nền tảng văn hoá dân tộc mà ngôn từ cũng không là ngoại lệ.

Từ khi có việc giao thương, qua lại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, cùng sự phát triển truyền thông, những người từ Việt Nam mới qua sau này đã du nhập vào cộng đồng những ngôn từ quái dị của Việt Cộng mà đã có nhiều người Việt tị nạn bắt đầu tiêm nhiễm. Hiện nay, đọc trên đa số báo chí hải ngoại, chúng tôi rất buồn khi thấy hiện tượng này tràn lan. Các bài báo trên các đài lớn như RFA, RFI, BBC, VOA không thiếu những từ ngữ lạ, do việc các đài này tuyển mộ các nhân viên từ Việt Nam qua.

Ngôn ngữ Việt Nam biến thể một cách đáng báo động. Nếu không ngăn chặn thì rồi đây, chúng ta sẽ nghe hàng ngày những cách nói quái dị đó. Thế là một lần chạy từ Bắc vào Nam, một lần nữa từ Việt Nam ra hải ngoại, nay chúng ta đang bị chúng đuổi theo đến tận xứ sở tự do. Vì thế, nhiệm vụ của bất cứ người Việt nào cũng là bảo tồn văn hoá, ngôn ngữ truyền thống.

Khái niệm về Ngôn Ngữ và Từ Ngữ

Các nhà ngôn ngữ học phân biệt hai loại ngôn ngữ: sinh ngữ và tử ngữ.

Tử ngữ là những ngôn ngữ đã từng có, từng được sử dụng; nhưng nay không còn thịnh hành nữa mà chỉ còn trong các trang sử, các trang sách cổ; và coi như đã chết. Ví dụ: chữ Latin, chữ cổ Irish, chữ Nôm của Việt Nam…

Sinh ngữ, nói nôm na là ngôn ngữ sống, đang được sử dụng. Sinh ngữ cũng có những quy luật chung. Quy luật này có thể do một viện hàn lâm soạn thảo, có thể do các thành viên ưu tú như giới văn học, báo chí, và cũng có thể do người sử dụng nó mặc nhiên chấp nhận sau một thời gian thử thách. Sinh ngữ cũng thay đổi theo hoàn cảnh sống của con người trong xã hội; thay đổi theo sự tiến triển của khoa học kỹ thuật… Văn phạm, là quy luật trong ngôn từ, cũng không cố định mà có thể thay đổi theo hoàn cảnh.

Theo từ điển, ngôn hay ngữ, hay cả chữ ghép ngôn ngữ có nghĩa là nói năng.

Ngôn (nói) và từ (lời) có trước, tự (chữ) theo sau.

Người Việt Nam có mặt trên địa bàn Hoa Nam và đồng bằng sông Hồng đã hàng ngàn năm. Có lẽ cũng như các dân tộc khác trên trái đất vào thời sơ khai, tổ tiên chúng ta chỉ có Ngôn mà chưa có Tự (chữ) hay Từ (lời). Ngôn ngữ thời đó chắc nghèo nàn và đơn giản vì cuộc sống đơn sơ. Nhiều dân tộc, vì nhu cầu giao tiếp, truyền thông, đã phát minh ra chữ viết. Trước hết, là các dấu hiệu, những nét chữ dựa trên hình ảnh mà người ta gọi là tượng hình, hay dựa trên âm thanh (tượng thanh). Rồi đi xa hơn, bằng cách hội ý dùng những chữ khác nhau ghép thành một chữ mới mang ý nghĩa phối hợp. Xin đừng nhầm lẫn chữ “hội ý” Việt Công dùng với nghĩa là bàn bạc, thảo luận.

Chúng tôi xin đơn cử vài ví dụ về tượng hình, tượng thanh và hội ý trong từ ngữ của Trung Hoa; cũng là chữ viết có sớm thứ nhì của loài người (1200 BC) sau người Ai Cập (3100 BC):

  • Tượng hình: Chữ Sơn 山(núi) Người Trung Hoa dùng hình dạng ba trái núi liền nhau. Chữ điền 田 giống như một thửa ruộng. Chữ nhật 日, nguyệt 月 dựa theo hình dạng mặt trời, mặt trăng.
  • Tượng thanh: Chữ nữ 女 (đàn bà) và dùng âm thanh của chữ mã 馬 (ngựa) ghép thành chữ ma 媽 là mẹ, mụ.
  • Hội ý: Ghép các chữ tạo thành chữ khác và mang ý nghĩa của những chữ được ghép. Ví dụ:

Thị 市 (chợ) ghép với chữ môn 門 (cửa) thành chữ náo 閙 (ồn ào). Ý rằng nơi chỗ chợ búa thì ồn ào. Thị tại môn tiền náo.

Nguyệt 月 (trăng) ghép chữ môn 門 (cửa) thành chữ nhàn 閒 (thảnh thơi, nhàn hạ). Nó mang ý nghĩa mảnh trăng treo nơi cửa tượng trưng sự nhàn hạ. Nguyệt lai môn hạ nhàn.

Minh 鳴 là tiếng chim kêu, ghép bằng hai chữ khẩu 口 (miệng) và điểu 鳥 (chim). Minh 明 là sáng thì ghép bằng hai chữ nhật và nguyệt. Minh 冥 là tối thì có chữ mịch 冖 là cái nắp che đậy, nên tối tăm.

Ngôn từ càng ngày càng phong phú

Người Việt đã Việt hoá những từ ngữ các dân tộc khác trong quá trình giao tiếp. Trước hết,  ông cha chúng ta đọc chữ của họ theo âm sắc Việt Nam. Hiện tượng này gọi là Việt hoá. Trong thời gian hàng ngàn năm bị đô hộ bởi Trung Hoa, người Việt thời đó chưa có nhiều từ ngữ, đã phải Việt hoá rất nhiều chữ Hán. Tức là đọc các chữ Hán theo âm Việt mà chúng ta gọi là chữ Hán Việt. Có thể nói chữ Hán Việt chiếm hết gần ba phần tư từ ngữ Việt của chúng ta dùng hiện nay. Năm 1624, Giáo Sĩ người Pháp là Alexandre de Rhodes (1593 – 1660), được Phái bộ Truyền Giáo Dòng Tên ở Roma cử đến Việt Nam năm 1624. Trước ông, đã có Giáo Sĩ gốc Bồ Đào Nha là Francisco de Pina và vài vị khác đã nghiên cứu áp dụng mẫu tự Latin để viết tiếng Việt Nôm. Nhưng Giáo Sĩ de Rhodes đã bỏ công hoàn thiện và soạn ra cuốn tự vị và văn phạm đầu tiên của Việt Nam là cuốn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Tự Điển Việt – Bồ – Latin) phát hành năm 1651 tại Roma.

Khi đường hàng hải phát triển, người từ các lục địa khác đến buôn bán, thăm viếng và đã đem vào nước ta những điều mới lạ, từ tư tưởng cho đến những phẩm vật mà cha ông ta chưa hề biết đến. Sự tiếp xúc với văn hoá Tây phương đã đem góp vào kho tàng Việt Ngữ nhiều chữ mới.

Ví dụ: chữ “bích kê” để thay chữ briquet của Pháp. Sau đó ở miền bắc đẻ ra chữ cái bật lửa, miền trung thì gọi là cái máy lửa, miền nam thì dùng chữ hộp quẹt máy (dù chữ hộp quẹt là nói về hộp diêm có động từ quẹt do động tác quẹt cây diêm vào bên hông cái hộp nhỏ để phát lửa). Chữ hộp quẹt thông dụng và được phân biệt bằng hộp quẹt cây, hộp quẹt ga, hộp quẹt máy.

Những chữ bơ, phô mai, xúc xích, ô tô, đường rầy, nhà ga, con tem, trái banh, là những chữ Tây đã Việt hoá từ chữ beurre, fromage, saucisse, auto, rail, gare, timbre, balle.

Chúng ta chấp nhận các từ ngữ Hán Việt vì chúng gọn gàng và dễ nghe hơn chữ đã dịch sang tiếng Việt thuần túy. Ví dụ: Quốc Trưởng (國 長) là người đứng đầu một nước. Không thể có chữ Việt nào gọn hơn.

Nhất là trong lãnh vực chính trị, quân sự, kinh tế khó kiếm ra những chữ Việt thuần túy. Người ta nói hay viết “ông Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng”, thay vì nói/viết “ông Cầm Đầu Bộ Giữ Gìn Đất Nước!” Người ta nói/viết: Quốc Vương và Hoàng Hậu thay vì Ông Vua Nước và Vợ Vua.

Ai thay được những chữ Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng bằng chữ Việt thuần tuý mà vừa ngắn vừa đủ ý, chúng tôi xin cúi đầu bái phục.

Nhưng cũng có rất nhiều từ ngữ Hán Việt có thể dùng từ ngữ Việt cũng gọn và rõ ràng. Ví dụ: phi cơ, tiềm thủy đỉnh, toà Bạch Cung… Tại sao không dùng chữ Việt: máy bay, tàu ngầm, toà Nhà Trắng…? Chúng ta thường dị ứng với những chữ tàu sân bay, lính thủy đánh bộ, nhà trắng…, vì các chữ đó nghe lạ tai, nôm na, và nhất là do đối phương chúng ta sử dụng. Lấy trường hợp trong các quân binh chủng của quân đội, gần như hầu hết là chữ Hán Việt: Quân Cụ, Quân Nhu, Bộ Binh, Biệt Động Quân, Không Quân, Hải Quân, Địa Phương Quân… lại lọt vào chữ lính Nhảy Dù là chữ Việt thuần túy. Tại sao chấp nhận chữ lính Nhảy Dù, mà phản đối chữ Lính Thủy Đánh Bộ? Có phải đó là do tâm lý, thành kiến và thói quen không?

Người viết cũng thắc mắc, tại sao có thể dùng chữ Trưởng Ty, Trưởng Phòng, Trưởng Ban; mà không dùng chữ Trưởng Bộ, Trưởng Tiểu Đoàn… Chẳng qua là quen dùng thôi. Chẳng có quy luật nào ràng buộc cả.

Ngôn từ mới do sự phát triển kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật

Cũng thế, văn minh nhân loại tiến bộ, phát minh ra nhiều cái mới mà chúng ta chưa có một Viện Hàn Lâm Ngôn Ngữ hay ít nhất một tập thể ưu tú có kiến thức và thẩm quyền nào ngồi lại để dịch ra chữ Việt. Mà có dịch ra được thì cũng rắc rối lắm vì khó mà nói đủ ý nghĩa trong một vài từ ngữ. Hàn Lâm Viện của Pháp hàng trăm năm nay vẫn ngồi cãi nhau chí choé về chữ nghĩa đấy.

Có những cách dịch mâu thuẫn nhau. Chiếc máy radio mà chúng ta nghe tin tức hàng ngày thì gọi là máy thu thanh. Trong khi cái ti vi để xem hình ảnh thì lại gọi là máy truyền hình mà không là máy thu hình. Vì chữ máy thu hình dùng cho cái camera!

Cái máy computer, ngày nay chúng ta chấp nhận chữ máy điện toán. Nhưng còn hardware, software, input, output, download, upload, save, scan, malware, spyware, keyword… Chúng tôi đã thấy vài nơi dùng chữ “từ khoá” để dịch chữ keyword. Nghe chưa quen tai!

Vậy thì có hai giải pháp

(1) Việt hoá nó như chúng ta từng Việt hoá chữ cà phê, xúc xích, nhà ga…

(2) Đặt cho những chữ đó những chữ Việt tương đối đủ nghĩa và dùng riết thì sẽ quen thuộc. Dĩ nhiên ban đầu sẽ có nhiều chống đối. Nhưng quy luật ngôn ngữ là thế, chúng ta phải có sự cảm thông, độ lượng để chấp nhận thôi.  Nên nhớ rằng ngày xưa tiếng/chữ Việt thuần túy cũng từng bị các nhà hủ Nho kết án “nôm na là cha mách qué”. Sự chống đối của họ cũng kéo dài cả hàng trăm năm cho đến mãi khi gần hết triều Nguyễn với sự kết thúc các kỳ thi Hương, thi Hội.

Tại sao không dùng chữ của Việt Cộng? Không có chữ Việt Cộng mà chỉ có việc Việt Cộng và dân trong nước dùng sai. Chúng tôi đã có viết một bài khẳng định rằng tất cả từ ngữ Việt đang được sử dụng hiện nay ở quốc nội hay hải ngoại đều là ngôn từ chung của dân tộc Việt. Việt Cộng chẳng đẻ ra chữ nào mới. Vấn đề là họ thay đổi, gán ghép, hoán chuyển và dùng sai nên trở thành lố bịch, sai nghĩa. Ngoài ra còn nhiều từ ngữ rất chính xác mà chúng ta né tránh, dị ứng vì lý do chính trị, để cho phía Việt Cộng độc quyền sử dụng. Ví dụ: các chữ giải phóng (liberation), đường cao tốc (high speed), kỹ thuật số (digital), nhu liệu (software).

Trong phần tiếp theo đây, chúng tôi dùng chữ nghiêng có gạch dưới cho những câu của Việt Cộng sử dụng (sai), và chữ nghiêng không gạch cho những câu mà chúng ta sử dụng (đúng). Chúng tôi chỉ nêu tượng trưng một số chữ.

Một vài thí dụ về việc sửa chữ:

1.- Hiện nay bên Việt Nam, người ta thường bỏ bớt chữ trong một từ ngữ kép:

  • Căng: “Tình hình căng lắm” thay vì “tình hình căng thẳng lắm”.
  • Quyết: “Cấp trên đã quyết” thay vì “cấp trên đã quyết định”.
  • Quản: “Việc này để bên Bộ Nội vụ quản” thay vì “… để bộ Nội Vụ quản lý”.
  • Bèo: “Món này bèo lắm” thay vì “Món này rẻ như bèo”.
  • Điều (điều động): “Mỹ điều tàu ra Thái Bình Dương” thay vì “Mỹ điều động tàu ra Thái Bình Dương”.
  • Bang: “Tôi cư ngụ ở bang Texas” thay vì “Tôi cư ngụ ở Tiểu Bang Texas”.
  • Chất: “Ai cũng muốn sống chất” thay vì “Ai cũng muốn cuộc sống đầy đủ”.

2.- Nhiều khi họ ghép hai chữ thành chữ mới và dùng sai::

  • Hoành Tráng là tĩnh từ dùng cho các để nói về bất cứ cảnh quan có quy mô to lớn, rộng rãi; không ai nói buổi tiệc hoành tráng được. Tiếng Việt phong phú; có rất nhiều tĩnh từ khác nhau để nói về từng trường hợp khác nhau: Lâu đài nguy nga, núi non hùng vĩ, cảnh diễn binh hùng tráng, căn phòng tráng lệ, công trình quy mô, khu vườn mỹ lệ, cảnh sắc huy hoàng, buổi tiệc linh đình….
  • Chỉnh Chu (chỉnh tề và chu đáo). Thật lạ tai khi nghe nói “Ông bà tiếp đãi chỉnh chu” thay vì “Ông bà tiếp đãi chu đáo”. Nhưng nếu chúng ta đừng quá chấp nê, thì việc ghép hai chữ có nghĩa gần và bổ túc nhau cũng có thể chấp nhận được (ví dụ chữ Đơn giản từ hai chữ đơn so và giản dị).
  • Lễ Tân (Lễ: nghi lễ, phép tắc; Tân: khách). Nếu có đặt thành chữ mới, thì chỉ dùng trong trường hợp trang trọng như “Ban Lễ Tân của bộ Nội Vụ…” nhưng không thể “cô lễ tân trong khách sạn”, mà nên nói “cô tiếp tân của khách sạn”.
  • Chất lượng (vừa phẩm chất vừa số lượng). “Hàng này chất lượng cao” thay vì “hàng này phẩm chất tốt”. Chỉ dung “chất lượng” khi nào một vật có đủ cả hai yếu tố này.
  • Tinh tươm: thay cho chữ tinh xảo, tươm tất.
  • Vụ việc: Đã vụ thì không cần việc, và hai chữ này dùng trong trường hợp khác nhau: Một vụ án, một việc làm tốt. Vụ giết người khác nghĩa việc giết người.
  • Cặp đôi (vừa cặp vừa đôi!): Không thể nói “một cặp đôi nam nữ xứng hợp”, thay vì ”một đôi nam nữ xứng hợp”.

Cặp và đôi là hai chữ riêng biệt để nói về số lượng. Tuy cùng có nghĩa là hai, nhưng cách dùng thì lại khác. Người ta dùng chữ “đôi” khi nói về hai người, hai vật mà có sự gắn bó, không thể tách rời ra. Đôi vợ chồng, đôi tình nhân, đôi bạn, đôi đũa, đôi giày… Những thứ này gắn bó, bổ túc cho nhau để trở thành một “mình với ta tuy hai mà một; ta với mình tuy một mà hai”. Đôi bạn, đôi vợ chồng mất đi một thì đời sẽ là vô nghĩa. Một chiếc đũa, một chiếc giày thì trở thành vô dụng. Hãy nhớ lại tựa đề cuốn tiểu thuyết “Đôi Bạn” của Nhất Linh, và câu “Miếng trầu cau nên đôi vợ chồng, đôi vợ chồng nghèo…” trong bản nhạc “Tình Nghèo” của Phạm Duy. Dĩ nhiên cũng có các ngoại lệ. Ví dụ: người cụt một chân, cụt một tay, chột mắt, hay có tật chân cao chân thấp…

Chữ cặp dùng một cách chung cho những gì có hai cái mà không nhất thiết cần kết hợp. Ví dụ: cặp vịt, cặp bánh chưng… Ghép chung hai con vịt, hai cái bánh hay tách ra từng con vịt, một cái bánh cũng chỉ thay đổi số lượng mà không thay đổi tính cách.  Vì thế, nên lựa chọn hoặc dùng chữ đôi, hoặc chữ cặp cho những điều mình muốn nói. Không thể tham lam dùng cả hai chữ “cặp đôi” vì như thế, nó có nghĩa là 4 thay vì muốn nói tới hai vật. Và nhất là nghe hai chữ “cặp đôi” nó kỳ quặc, chướng tai vô cùng.

Có khi họ ghép một chữ Hán vào với chữ Việt thuần tuý tuy cả hai chữ cùng một nghĩa như bến cảng, in ấn…

Những thí dụ về việc dùng sai:

1.- Danh từ dùng như động từ hay tĩnh từ.

  • Ấn tượng là danh từ (impression). Việt Cộng dùng thay tĩnh từ (impressive) khi nói “Ca sĩ X ăn mặc ấn tượng” mà lẽ ra “Cách ăn mặc lố lăng của ca sĩ X gây ấn tượng xấu…). Hoặc như động từ (impress): “Tôi ấn tượng điều anh nói” thay vì “Lời anh nói cho tôi một ấn tượng tốt”. Trong Anh ngữ, có nhiều chữ cùng một gốc để dung trong trường hợp khác nhau. Vì dụ: impression (danh từ), impress (động từ), impressive (tĩnh từ).
  • Tâm tư có nghĩa là sự suy nghĩ nặng về cảm tình. Một anh cao cấp Việt Cộng nói với nhân viên: “Tôi tâm tư hoàn cảnh của anh” Lẽ ra phải nói: “tôi ưu tư về hoàn cảnh của anh.”
  • Khả năng là danh từ, không thể dùng như động từ. “Trời khả năng mưa” thay vì “trời có thể mưa”.
  • Trình độ là danh từ. Không thể dùng như tĩnh từ. “Anh này trình độ nhỉ”, thay vì “Anh này có trình độ nhỉ”.

2.- Dùng sai nghĩa:

  • Vô tư (nghĩa đúng là không suy nghĩ). Không thể nói: “Cứ ăn uống vô tư!”, thay vì “Cứ ăn uống thoải mái
  • Chuyên trị (nghĩa đúng là dùng để trị một bệnh gì). Không thể nói: “Anh hoạ sĩ này chuyên trị tranh màu” mà phải là “Anh hoạ sĩ chuyên vẽ tranh màu”
  • Tiếp cận là kế cạnh, sát bên, next to. Không thể dùng thay chữ đến gần (approach) hay tiếp xúc (contact). Không nên nói: “Cô ta tiếp cận ông X” thay vì “Cô ta tiếp xúc ông X”. Một thí dụ đúng về chữ tiếp cận: “Nhà nàng tiếp cận nhà tôi”
  • Thể hiện là biểu lộ (express). Không thể viết “Cái bánh chưng khổng lồ do bà X thể hiện” thay vì “Cái bánh chưng khổng lồ do bà X làm/ thực hiện.”. Câu dùng chữ thể hiện đúng: “Cách ăn nói của anh thể hiện tư cách đứng đắn.”
  • Liệt sĩ là người có khí tiết mạnh mẽ. Dùng chữ liệt sĩ để nói về những người chết trận (Nghĩa trang Liệt Sĩ) là sai. Chữ đúng là tử sĩ.
  • Tài khoản (chỉ dùng trong tài chánh). Không nên nói “Tài khoản Facebook, tài khoản Yahoo”. Chữ Account theo nghĩa này chưa thấy chữ Việt tương đương. Tại sao không Việt hoá nó?
  • Thông tin (không thể dùng thay chữ tin tức). Thay ví nói ”Anh cho tôi thông tin về việc này”, nên nói “Anh cho tôi tin tức về vụ này”.
  • Tư liệu (trong Hán tự có 28 chữ Tư, trong đó ghép với chữ Văn thành Tư Văn là văn thư qua lại của các quan). Không nên viết “Tư liệu chiến tranh”; đúng ra phải là “Tài liệu chiến tranh”.
  • Thống nhất (hợp lại, unify). Không nên dùng chữ này có nghĩa là đồng ý (agree). Thay vì viết “Các bác sĩ thống nhất trong việc giải phẫu”; nên sửa là “Các bác sĩ đồng ý việc giải phẫu”.
  • Thu hoạch (thường dùng trong nông nghiệp là gặt, hái, lượm). Không nên dùng nói “Học sinh làm bài thu hoạch” thay vì “bài thi tổng kết, cuối khoá…”

Chúng ta nghe có những bài viết bên Việt Nam, và ngay ở hải ngoại, họ dùng những chữ rất một cách kỳ lạ.

  • Văn hóa: Có khuynh hướng ghép chữ văn hóa bừa bãi. Họ viết trong bài báo về du lịch “Tại Nhật không có văn hoá típ.”, “Văn hoá ẩm thực của người Phi.” . Nên viết đơn giản “Nhật không có thói quen cho tiền ‘tip’”, hay “Vấn đề ăn uống của người Phi”
  • Xử lý: “Rau được xử lý xong cho vào chảo luộc”, “Cầu thủ xử lý đường bóng”; thay vì “Rau được nhặt rửa xong cho vào chảo luộc” và “Cầu thủ chuyền một đường banh”
  • Ùn tắc (tắc nghẽn). “Cuối ngày Chủ nhật, lưu thông ùn tắc”. Sao không nói “Cuối ngày Chủ nhật, việc lưu thông bị tắc nghẽn
  • Trần và Sàn (Ceiling/Maximum, Threshold/Minimum). Thay vì nói”Giá trần của căn nhà…”; nên nói “Giá cao nhất của căn nhà.”
  • Chùm: Chùm ảnh, Chùm thơ. Sao không nói dễ nghe “tập ảnh, loạt thơ…”
  • Tốp ca: “Ban tốp ca nữ” thay vì “Ban hợp ca nữ”.
  • Cá thể (muốn nói một đơn vị): Báo chí bên Việt Nam viết “Cảnh sát bắt được hai cá thể vi phạm”; nên viết “Cảnh sát bắt được hai người vi phạm”.
  • Tác nghiệp (ý muốn nói làm việc chuyên môn): Có nhiều bài viết “Các phóng viên đến tác nghiệp”, “Cảnh sát đến nơi tác nghiệp”. Nên dùng chữ “lấy tin” hay “làm việc/điều tra”
  • Giao lưu: “Hai chị em giao lưu suốt buổi tối” thay vì “Hai chị em trò chuyện suốt buổi tối”
  • Phản hồi: Việt Cộng viết trong bài báo “Không thấy phía Mỹ phản hồi” thay vì “Không thấy phía Mỹ phản ứng / trả lời
  • Khủng (ý nói khổng lồ): “Cái xe khủng này, giá khủng” thay vì “cái xe lớn, giá cao
  • Diễu hành, diễu binh: “Đi diễu hành ngày Quốc Khánh.” Lẽ ra phải là “diễn hành, diễn binh”, vì diễu hành có nghĩa là đi vòng vòng có tính cách vui chơi, không trang trọng.

Những chữ không thấy trong các từ điển Việt Nam lẫn Hán Việt

Tình huống (ý muốn nói thay chữ tình trạng), bức xúc (chỉ có chữ bức xức), động thái (ý muốn nói đền động tác, hành động), giao lưu (ý muốn nói đến trao đổi), hồ hởi, hiệp đồng (tự điển có chữ hợp đồng có nghĩa giao kèo), lễ tân (ý muốn nói tiếp khách) … Còn nhiều lắm!

Khuynh hướng ưa đảo thứ tự các chữ kép, nghe chướng tai vô cùng: bảo đảm, đơn giản, họ đảo thành đảm bảo, giản đơn… Rồi lại có tình trạng đổi chữ “i” thành chữ “y” như bác sĩ, nghệ sĩ, liệt sĩ thành bác sỹ, nghệ sỹ, liệt sỹ; hay ngược lại, như vô lý thành vô lí, chia ly thành chia li. Nhiều người có khuynh hướng cải cách chữ “i” và “y” cho đơn giản nhưng chưa được hưởng ứng rộng rãi.

Nói qua về cách dùng trạng từ

Cách dùng trạng từ. Trong khi tĩnh từ bổ nghĩa cho danh từ, thì trạng từ bổ nghĩa cho động từ,:hay đôi khi cho tĩnh từ.

Ví dụ. Anh ta nói tiếng Anh một cách thành thục; Chị ta cư xử khôn khéo.

Như thế vị trí của trạng từ là theo sát động từ, trước hay theo sau.

Ví dụ: Cô Ba nhanh nhảu trả lời. Cô Ba trả lời một cách nhanh nhảu.

Chỉ có khi cần nhấn mạnh, người ta mới đặt trạng từ ra trước, nhưng phải cách mệnh đề bằng một dấu phẩy.

Ví dụ, Đột nhiên, anh ta ngã xuống.

Chúng ta thấy bây giờ người bên Việt Nam viết báo, hầu hết cho trạng từ ra đầu câu.

Ví dụ: Choáng công thức pha chế sữa đậu nành “bẩn” của Việt nam. Kinh hoàng đứa cháu chém bà ngoại vì không xin được tiền.

Câu trước chữ choáng viết ngắn của choáng váng, nghe đã chướng tai, rồi lại đặt nó ở đầu câu, nghe càng khó chịu.

Người Việt tuyệt đối không áp dụng cách kỳ cục này.

Có nhiều tên người, tên các quốc gia; nên giữ nguyên chữ của nước họ, hay dọc theo âm Việt Nam, hay dịch sang tiếng Việt?

Tên người, tên quốc gia là các danh từ riêng. Chắc chắn không ai dịch danh từ riêng ra tiếng nước mình mà có thể đọc theo âm sắc nước mình, nhất là giới bình dân. Nhưng khi đọc như thế, nghe vừa kỳ cục vừa bất lợi khi một người ta cần tra cứu, tìm hiểu thêm, sẽ không làm được vì không biết nguyên từ của các chữ đó để tìm trong tự điển hay trên google. Vì thế, theo ý tôi, tên các quốc gia, tên người (nói chung là danh từ riêng) nên để nguyên văn.

Tên các quốc gia, người Việt đọc theo chữ Hán. Người Trung Hoa họ đọc nguyên từ theo phát âm Trung Hoa, rồi viết ra theo chữ Hán. Người Việt lần nữa đọc chữ Hán đó theo âm Việt.

Vì thế, nhiều danh từ khi đọc tiếng Việt càng xa với nguyên từ.

Vài thí dụ:

  • Roma: Người Trung Hoa không phát âm được chữ ‘R’. Họ đọc thành ‘L’. Roma thành Lỏ Ma. Việt đọc thành La Mã.
  • France: Trung Hoa đọc là Phơ Lang Sa. Việt đọc theo chữ Hán thành Pháp Lang Sa, gọi tắt là Pháp.
  • Espagne: Trung Hoa đọc là Sì Pa Nhơ, Việt thành Tây Ban Nha.
  • America: Trung Hoa đọc là A Mei Li Ca, Việt dọc thành Á Mỹ Lợi Á, gọi tắt là Mỹ.
  • Washington: Trung Hoa đọc Hwa-Shing-Tơn, Việt đọc lại thành Hoa Thịnh Đốn.

Quý vị thấy, về mặt này, người Trung Hoa họ Hán Hoá các danh từ riêng của Tây Phương. Đó là chuyện của họ, coi như tạm ổn vì họ phát âm không khác mấy nguyên từ. Nhưng khi cha ông chúng ta lại phiên âm them thêm lần nữa (Việt hoá các chữ Hán) thì càng xa lạ với nguyên từ. Vì thế, tôi thích để nguyên từ của Tây Phương.

Nhưng đó là ý kiến của riêng tôi. Còn vị nào muốn giữ các chữ Việt thì tùy họ.

Việc Việt hoá những danh từ riêng Tây Phương cũng không nên. Vì khi đọc nghe chướng tai lắm. Ngươi ta từng chế nhạo việc phiên âm các tên Nga như Móc Cu Ra Bóp, Lút Mi La; hay tên Lào như Cay Xỏn, Xi Xa Phỏn… Và nếu một người cần tra cứu thêm, thì phải dùng nguyên từ, chứ dùng danh từ đã Việt Hoá sẽ không tìm thấy trong sách vở ngoại quốc hay trên internet.

Ví dụ, khi cần nói với người Mỹ, nếu chúng ta đọc Ý Đại Lợi, Hoa Thịnh Đốn, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng… không ai biết cả. Nhưng nếu đọc Yi Ta Li, Hwa-Shing-Tơn, Teng Xiẻo Ping, Li Ping thì chắc có người biết ngay.

Một điểm đáng nói, là tiếng Việt đọc theo đơn âm, tiếng các nước Tây phương theo đa âm. Hai cách phát âm cũng khác xa. Vì thế, với các danh từ riêng, thay vì đọc rời từng âm một (ví dụ: Ca-Li-For-Nia), nên tập đọc nhanh thành một chuỗi âm (California).

Vài thí dụ nhà nước và báo chí Việt Cộng đã Việt hoá các danh từ riêng và viết rời thành từng chữ đơn âm:

  • Christina: Khơ Ri Chi Na
  • Gorbachev: Go Rơ Ba Chốp
  • Tchenenko: Tờ-Réc-Nen-Cô, có khi là Chéc Nen Cô
  • Johnson: Giôn Xơn

Dù chúng tôi đã nhiều lần lên tiếng về tình trạng thoái hoá của tiếng Việt trong nước, và nhắc nhở những người quốc gia tại hải ngoại, nhất là các nhà văn, nhà báo phải cẩn thận khi chuyển tin, sao chép tin từ trong nước, hay là khi viết bài vở, phải dò kỹ, thật kỹ để không lọt những từ ngữ kỳ quái này vào. Hiện nay, các đài truyền hình, truyền thanh lớn như BBC, VOA, cả RFA cũng tuyển dụng những nhân viên sanh đẻ, lớn lên, hấp thụ văn hoá Việt Nam Cộng Sản, nên trong các bài viết của họ, nhan nhản những chữ sai. Vì đa số báo chí hải ngoại ít nhân viên, không nhiều thì giờ để chăm sóc, nên hiện tượng này cứ tiếp diễn dài dài. Nó vô tình đầu độc chúng ta, làm cho người đọc quen dần và không cảm thấy khó chịu. Chúng tôi biết có nhiều nhà văn, nhà bình luận, thậm chí nhiều nhà hoạt động cộng đồng, đoàn thể, thỉnh thoảng vẫn dùng những chữ sai như nói ở trên.

Ở trong nước thì chúng tôi khó trách. Vì gần hết dân số 90 triệu họ nghe, đọc và nói quen rồi. Lâu dần, nó trở thành tiêu chuẩn mà chúng ta đành bất lực. Vấn đề đúng sai, hay dở thật ra chỉ là tương đối. Cái đúng, cái hay của người này; có thể là cái sai, cái dở của người kia! Khi đa số mọi người chấp nhận điều mà quá khứ coi là sai, thì trong hiện tại hay tương lai nó sẽ là điều đúng. Chuyện của dân trong nước, mình đành chịu thua!

Nhưng khi còn gần ba triệu người ở hải ngoại mà đại đa số hấp thụ văn hoá Việt Nam chính thống, chúng ta phải kiên quyết bảo lưu văn hoá của chúng ta. Chúng ta phải thắng trên mặt trận văn hoá.